Những câu phú về Lộc Quyền Khoa Kỵ

Những câu phú về Lộc Quyền Khoa Kỵ

Tam Hóa liên châu phúc trùng lai,
Mệnh thân gặp được hưởng miên trường.
Ngọ thượng Khoa Quyền biên cương ấy,
Nhiệm chức phong quan thực vạn chung.
Khoa Quyền củng chiếu viên vẫn mỹ,
Không bằng tọa mệnh đắc thung dung.
Lộc Mã phong danh đồng tọa mệnh,
Xung chiếu mệnh thân lợi thương xa.
Cách phùng Kiếp Không chung lộc mã,
Bạc danh chẳng lợi lại bất công.
Khoa Quyền nhàn cung nhân tiến bước,
Vẫn hưởng vinh xương tại triều dương.
Khôi Khoa Việt cách đồng văn diệu,
Khúc Xương Khoa chiếm hưởng văn trường.
Nô cung Khoa phù chẳng đúng cách,
Lận đận công danh cả học hành.
Thành công Khoa tinh phùng Khôi Việt,
Định chiếm khôi nguyên chiếm bảng đầu.
Khoa Quyền Lộc hợp tăng phú quí,
Quản ngại xung hội lũ sát tinh.
Khoa Mệnh Quyền triều tam phương ấy,
Giáp đệ đăng dung đỗ đạt cao.
Khoa danh hãm cách hung thần hội,
Đà Kình Không Kiếp bất phùng thời.
Khoa Quyền Lộc vọng nên danh giá,
Lại kẻ sỹ quan thể thanh cao.
Khoa minh Lộc ám thêm tước vị,
Lộc dẫu hãm cung vẫn được tài.
Quyền Khốc đồng cung chân tể tướng,
Minh danh vũ thế mạnh hơn người.
Quyền Lộc thủ nhiên tư thương lợi,
Tác định cơ duyên cách doanh nhân.
Quyền Lộc Tài Phúc chi hương,
Vinh hoa phú quý lợi đường tổ tông.
Quyền Lộc thao túng cung nô,
Công danh quan phẩm thăng trầm xuống lên.
Tài quan Quyền Lộc chói lòa,
Vinh hoa xuất thế công danh trường tồn.
Mệnh Lộc tọa chiếu vô hung,
Cả đời sung túc vinh hưng cửa nhà.
Lộc Quyền cát phúc Mệnh phùng,
Thời vận sớm gặp vẫy vùng công môn.
Hóa lộc tứ mộ chi hương,
Vàng chôn lòng đất kém hơn ở ngoài.
Hóa Lộc cư Dần Mão tham tài,
Dĩ nhiên cố thủ ngọc vàng để chum.
Hóa Kị Xương Khúc đồng sân,
Học thì giỏi đó lận đường công danh.
Hóa Kỵ đóng ở tài cung,
Khi hết lại có khi vơi lại đầy.
Cự Kỵ đóng ở cung điền,
Cửa nhà cao rộng quý quyền cao sang.
Hóa kỵ mệnh có Thiên không,
Ghen bóng ghen gió vợ chồng hoài nghi.
Vợ chồng nay dận mai hòa,
Phục binh Hóa kỵ ở tòa phu thê.
Hóa kỵ hợi tý gặp Khoa,
Cẩn trọng lời nói chikhs là người ngoan.
Khoa Lương Kỵ bóng đề đa,
Mện cung cư tý người là chính chuyên.
Hóa kỵ cùng đóng Kình dương,
Tam kỳ ga hội cát hung mệnh này.
Cơ Lương song Lộc thiên nhi,
Phú gia dịch quốc của thì siết đâu.
Song Lộc chiếu mệnh khể đầu,
Tam Không Song Lộc vẫn giàu phú gia,
Mệnh vô chính diệu kể qua,
Song Lộc thủ chiếu đắc tòa tam không.
Hóa lộc tí ngọ thiên di,
Văn chương cái thế phát huy ở ngoài.
Chính hãm Lộc hãm chẳng tài,
Đèn trong đom đóm ở ngoài đuốc soi.
Song Lộc lưỡng ngộ tài ba,
Thái công vũ lược siêu quần thuở xưa.
Mệnh có Lộc ngộ Phá Không,
Cát diệu nhân biến vi hung tức thời.
Số muộn màng gái trai ôm ẵm,
Vì Kỵ Đà len lỏi cung con.
Kỵ Đà Thái Tuế Thân cung,
Khỏi nạn nào được ung dung mấy người.
Mệnh Hóa Kỵ Tật Mộc thần
Âm nang sa thấp một phân chẳng nhầm.
Đà Kỵ Tật Ách trùng gia,
Âm hư chứng ấy tật là hiếm con.
Cự Kỵ Đà Hổ Mộ cung,
Tai nạn xe cộ mã nan hạn hành.
Sát tinh Quyền Lộc trùng phùng,
Hữu danh vô thực ấy trừng mà coi.
Hạn phùng mất chức ô danh,
Quyền phùng Không Kiếp Kình Đà lưu niên.
Khoa tinh chẳng thích phùng Không,
Học hành một nẻo danh công một đàng.
Mệnh Hạn tuy sáng phùng Khoa,
Được Quyền đối củng vũ môn vượt đài.
Mấy ai toại trí ở đời,
Hóa Kị đóng Mệnh hay ngoài cung Thân.
Kỵ tinh xung củng Quyền tinh,
Thăng quang vững bước công danh ở đời.
Hạn phùng Hóa kỵ chẳng bàn,
Mệnh thủy Hóa kỵ khải hoàn vô tai.
Thiên đồng Hóa kỵ lại hay,
Tuổi đinh cung tuất cách này được vui.
Cự phùng Kỵ ở tốn đoài,
Phản vi phú quý tuổi tân cung thìn.
Nhật Nguyệt đắc Hóa Kị xâm,
Phản vi được phúc Hãm thì lại hung.
Chư tinh tại hãm địa chủ hung,
Hạn lâm Hóa kỵ tăng hung tất thường.
Liêm Tham hãm địa khó lường,
Liêm phùng Hóa kỵ tổn thương nam đào.
Cách cục bần hàn trong Lá số tử vi

Cách cục bần hàn trong Lá số tử vi

 BẦN CỤC TRONG TỬ VI

+ Liêm Trinh thủ Mệnh tại dần, Thân gặp Tuần Triệt án ngữ là cách Sinh Bất Phùng Thời.
+ Phá thủ mệnh tại Dần, Thân gặp nhiều sao mờ ám xấu xa xâm phạm là cách Nhất Sinh Cô Bần.
+ Vũ Khúc hay Liêm Trinh mờ ám xấu xa thủ Mệnh gặp nhiều sát tinh xâm phạm là cách Tài Dữ, Tù Cừu.
+ Nhật Nguyệt mờ ám xấu xa thủ Mệnh hay chiếu Mệnh là cách Nhật, Nguyệt Tàng Hung.
+ Mệnh có nhiều sát tinh mờ ám xấu xa hội hợp, là cách Quân Tử Tại Dã.
+ Cung Mệnh có Lộc Tồn hay Hóa Lộc tọa thủ gặp Không Kiếp đồng cung, là cách Lộc Phùng Lưỡng Sát.
+Thiên Mã thủ Mệnh gặp Tuần Triệt án ngữ là cách Mã Lạc Không Vong.

TẠP CỤC TRONG TỬ VI

+ Cung Mệnh, Thân mờ ám xấu xa, nhưng vận hạn lại rất tốt đẹp, ví như rồng mây gặp hội là cách Phong Vân tế Hội.
+Cung Mệnh,Thân xấu xa mờ ám, nhưng vận hạn tốt đẹp, ví như cây khô gặp mùa xuân, là cách
Khô Mộc Phùng Xuân.
+ Thời trẻ vất vả cực khổ vì gặp hạn xấu, về già an nhàn khá giả vì gặp hạn tốt ví như mặc áo gấm về làng, là cách Y Cẩm Hoàn Lương.
+ Nửa năm hanh thông, nửa năm hung xấu là cách Cát Hung Tương Bán.
+ Vận hạn trước sau, xấu tốt không rõ rệt, may liền với rủi, liên miên, ví như người bệnh đi bộ lâu mà không tìm được thầy thuốc, là cách Bộ Số Vô Y.
+ Hạn gặp Sát, Lộc, Mã hội hợp và Tam Không xâm phạm. Trường hợp này Lộc, Mã bị nguy khốn nên hạn xấu, là cách Lộc Xung, Mã Khổn
Cung phúc đức có thực sự quan trọng trong lá số  Tử Vi ?

Cung phúc đức có thực sự quan trọng trong lá số Tử Vi ?

Cung PHÚC ĐỨC là cung quan trọng, không chi phối tất cả nhưng ảnh hưởng nhiều mặt, là một trong những cung được mọi người thường xuyên nhắc tới
Phú thọ quý vinh yểu bần ai khổ, do ư phúc trạch cát hung
Thương tang hình khổn hạnh lạc hỷ hoan, thị tại vận hành hung cát
Tạm dịch:
Giàu nghèo thọ yểu sang hèn vinh nhục là do ở sự tốt xấu của phúc ấm (nhiều sách dịch Phúc Trạch là Phúc Đức và Điền Trạch, nhưng Trạch này không phải là Điền Trạch)
Vui mừng sung sướng lo sợ buồn rầu là bởi sự tốt xấu của vận hạn
Câu trên không phải nói tất cả mọi thứ xuất phát từ cung Phúc chỉ cần xem ở cung Phúc là được, mà đại ý muốn nói rằng cung Phúc rất quan trọng, nó ảnh hưởng lên rất nhiều mặt.
Làm một việc tốt, phúc chưa đến nhưng hoạ đã xa
Làm một việc xấu, hoạ chưa đến nhưng phúc đã tan
Cung Phúc đức trong lá số của con người được chia làm 2 phần- Đó là phần PHÚC và phần ĐỨC. Con người khi đang sống sẽ chịu ảnh hưởng cả 2 phần trên, trong đó phần Phúc được gọi là PHÚC ÂM PHẦN (-) được chiếm 50% trong cung Phúc đức do Tổ Tiên Ông Bà ( đã mất ) để lại cho con cháu trên trần thế được thụ hưởng. Còn lại là phần Đức được gọi là ĐỨC DƯƠNG PHẦN (+) cũng chiếm 50% trong cung Phúc đức do đương số đang sống làm ra (gây dựng được),đồng thời được hưởng thụ ngay trong lúc đang sống.Thế mới có câu:”Ở hiền gặp lành” hay:”Sống ác nên quả báo”…. Con người ăn ở tốt - xấu thế nào thì cuộc đời sẽ trả đúng như thế. Khi thác về với Tiên tổ thì ĐỨC (+) còn lại bao nhiêu mà lúc còn sống không sử dụng hết sẽ được chuyển thành PHÚC (-) và đến đời con cháu lại tiếp tục được thụ hưởng…Hai chữ “PHÚC ĐỨC”- Cái dòng chảy luân hồi này cứ thế tiếp diễn từ hết đời này sang đến đời khác. Đó cũng là lý do thay lời giải thích tại sao luôn luôn có sự khác nhau giữa con người này với con người kia. Con người được hưởng thụ hay không được hưởng thụ hoặc hưởng nhiều hay ít, âu cũng là tùy thuộc vào Phúc Đức của người đó dày hay mỏng. Người xưa có câu:” Có phúc tất có phần” là lẽ vậy, thực lộc từ đó mà sinh ra và giữ được lâu bền.
Trong cuộc sống, cho dù Phúc âm có cao dày đến đâu, nếu cứ ỷ vào nhờ vả Phúc âm, bóc gỡ sử dụng liên tục ( ý muốn nói nếu thường xuyên làm điều ác, tham lam, tham nhũng hay không chịu tu nhân tích đức, không chịu rèn luyện… ) thì chẳng mất chốc quả núi Phúc âm kia sẽ bị bào mòn dẫn tới suy kiệt và cũng là lúc thời điểm con người tội lỗi kia phải bị trừng phạt, do phần âm không còn đủ sức mạnh che chở và cũng chính phần âm đó ra tay đày ải ( Ta không biết đấy thôi ) đối với kẻ phản trắc, vô ơn, đã được hưởng nhiều rồi mà còn không biết điều.
Có rất nhiều lá số giống nhau do sinh cùng Năm-Tháng-Ngày-Giờ, nhưng tại sao cuộc đời của những người đó lại khác nhau. Sự thay đổi khác nhau đó được tạo thành bởi 2 lý do chủ yếu sau : thứ nhất là ĐỊA LINH (Sinh khí hay Hung Sát khí tại vùng đất ở), thứ hai chính là Phúc đức của con người được tạo nên.
Cả hai điều nêu trên đều có thể chứng minh được: Thiên mệnh(cố định) có thể thay đổi phần nào đó nhờ Vận mệnh(sự hòa quyện giữa sự vận động của bản thân với hoàn cảnh làm cho con người biến đổi theo). Như vậy chung ta đã thấy rõ Phúc đức quan trọng đến nhường nào,hãy thay đổi lá số tốt hơn nữa bằng cách tích thêm “năng lượng” càng nhiều càng tốt cho cung Phúc đức.
Cách cục về sinh con trai hay con gái trong tử vi

Cách cục về sinh con trai hay con gái trong tử vi

Một vài điều về sinh con trai và con gái

  1. Có thể phân định trai nhiều hay gái nhiều bằng sự hiện diện của chính tinh tại cung Tử-Tức là Nam đẩu tinh hay Bắc đẩu tinh.
  2. Nam đẩu tinh là: Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát,, Thiên Đồng, Thái Dương, Thiên Cơ. Cung Tử-Tức có Nam đẩu tinh tọa thủ thì con trai nhiều hơn con gái.
  3. Bắc đẩu tinh là: Thái âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân. Cung Tử-Tức có Bắc Đẩu tinh tọa thủ, thì con gái nhiều hơn con trai.
  4. Nếu có 2 chính chinh tọa thủ, 1 là Nam đẩu tinh, 1 là Bắc đẩu tinh thì sao? Ảnh hưởng Nam đẩu tinh chia đều, vậy phải xem cung Tử-Tức là cung Dương thì con trai nhiều hơn; nếu là cung âm, thì con gái nhiều hơn.
  5. Nếu là Tử Vi đồng cung với một chính tinh khác: Tử-Vi lại là cả Nam và Bắc đẩu tinh, thì ảnh hưởng phân định trai gái không còn nữa. Vậy phải xét tính chất của chính tinh đồng cung kia. Nếu chính tinh đó là Nam đẩu tinh, thì sinh con trai nhiều hơn. Nếu là Bắc đẩu tinh, thì sinh con gái nhiều hơn. ( Nguồn tử vi áo bí) 
 ĐÔI ĐIỀU VỀ TỬ VI

ĐÔI ĐIỀU VỀ TỬ VI


Khi học Tử Vi, ta bắt đầu làm quen với khái niệm TAM PHƯƠNG - TỨ CHÍNH. Gạt qua một bên sự chiếu dọi của các ngôi sao (tinh diệu), ta chỉ bàn tới sự ảnh hưởng giữa các cung, thấy ít bạn để ý đến sự xung khắc của hai cung đối nhau:
Tý xung Ngọ,
Sửu xung Mùi,
Dần xung Thân,
Mão xung Dậu,
Thìn xung Tuất,
Tỵ xung Hợi.
Trên 1 lá số tử vi gồm 12 cung chia thành 6 cặp đối nhau, đó là:
Mệnh - Di,
Huynh - Nô,
Phu - Quan,
Tử - Điền,
Tài - Phúc,
Phụ - Tật.
6 cặp cung đối nhau này được ví như 6 cái CẦU BẬP BÊNH, bên nào nặng sẽ chìm xuống, ngược lại bên cung đối nhẹ thì nổi lên.
Vậy các thầy Tử Vi thường có 1 trong những phép hóa giải, chế hóa cho đương số như sau:
- Muốn nặng Tài thì làm nhẹ Phúc, ngược lại muốn nặng Phúc thì làm nhẹ Tài;
- Muốn được Phụ thì phải làm mất Tật, ngược lại ham Tật thì sẽ buông Phụ;
- Muốn nội tâm hướng Chủ Mệnh thì bỏ hướng ngoại Khách Thiên Di, ngược lại muốn hướng ngoại Di thì phải bớt nội Mệnh;
- Muốn gần anh em Huynh đệ thì nên xa lánh bạn bè Nô bộc, ngược lại muốn có bạn bè thì phải xa lánh anh em;
- Muốn quan tâm vợ chồng Phu thê thì đành lơ là công việc Quan lộc, ngược lại muốn chu toàn công danh sự nghiệp thì phải chấp nhận lơ là hạnh phúc lứa đôi;
- Muốn nhiều con Tử tức thì phải chấp nhận ít nhà đất Điền trạch; ngược lại muốn nhiều nhà đất thì phải đành ít con;
...
Không ngẫu nhiên mà Cụ Trạng Trình (Trình Tuyền Hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm) có câu:
"Mộng làm giàu thường hay thất đức
Làm điều nhân khó được giàu sang".
Vậy nên cố gắng lao động, khi giàu rồi thì hẵng làm từ thiện, cúng dường để tích phúc. Chứ nhiều người còn nghèo khó mà cứ đi cúng, đi cho, đi hầu, chẳng chịu làm việc, rồi ảo tưởng thì nghèo mãi thôi ...
Vài lời mạo muội đánh trống đi qua cửa nhà sấm, mong các Thầy lượng thứ. Chúc mọi người năm mới vui khỏe, đẻ nhiều, thoải mái tiền tiêu, vạn điều hạnh phúc ạk !